Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Cùng tìm hiểu về những cuộc tháo chạy ngàn tỷ

Đầu tư vào 17 dự án thủy điện của HAGL được tính là dài hạn với tổng vốn đầu tư là 7.500 tỷ đồng, thêm thuận lợi huy động vốn khi đó cũng khá dễ dàng do tình hình tài chính tốt cùng nguồn lợi nhuận lớn do bất động sản mang lại. Bên cạnh đó, chủ trương của ông Đức lúc đó là chỉ dùng tiền thu được từ thủy điện để đầu tư mới cho thủy điện.
Đồng Tâm, Hoàng Anh Gia Lai, Tôn Hoa Sen rồi Tân Hiệp Phát đều ghi tên mình vào danh sách các nhà đầu tư cảng biển. Một mặt các dự án này nhắm đến nhu cầu vận chuyển của chính các doanh nghiệp, mặt khác hướng dòng tiền đầu tư vào một lĩnh vực đầy tiềm năng với lợi nhuận khổng lồ. Nhưng...
Nhà nhà làm cảng biển
Năm 2006, do nhà máy sản xuất tấm trần thạch cao nằm trong KCN Hiệp Phước nằm sát sông Xoài Rạp nên Công ty Vĩnh Tường đã tranh thủ lợi thế này để đầu tư cầu cảng để vận chuyển hàng.
Theo bà Nguyễn Thị Ngọc Loan, Chủ tịch HĐQT Công ty Vĩnh Tường, sản phẩm thạch cao nặng, cồng kềnh, chi phí vận chuyển đội lên cao hơn nhiều so với các sản phẩm khác, vì vậy, khi có cầu cảng, chi phí được rút ngắn rất nhiều, hiệu quả kinh doanh cũng cao hơn.
Cũng như Vĩnh Tường, nhiều doanh nghiệp (DN) cũng đầu tư vào cảng biển để phục vụ kinh doanh cũng như bỏ tiền đầu tư vào một lĩnh vực nhiều lợi nhuận.
Năm 2008, với kế hoạch đầu tư cảng biển, Hoa Sen Group (HSG) tính toán nhằm giảm phí vận chuyển trước mắt và thực hiện chiến lược trở thành tập đoàn đa ngành, vì vậy, đã mạnh dạn góp vốn với Công ty CP Gemadept đầu tư gần 1.000 tỷ đồng xây dựng dự án Cảng Quốc tế Hoa Sen - Gemadept nằm trong khu vực Cảng Cái Mép - Thị Vải.
Do nhu cầu mở rộng kinh doanh, Công ty Thép Cẩm Nguyên cũng đầu tư cầu cảng để vừa chủ động xuất nhập hàng hóa, vừa tiết giảm phí vận chuyển. Năm 2009, Thép Cẩm Nguyên đã nhận giấy phép hoạt động Cảng Cẩm Nguyên 5.000 tấn tại Bến Lức, Long An.
Ông Huỳnh Cẩm, Chủ tịch HĐQT Công ty Cẩm Nguyên, khẳng định: "Đây là một công trình phụ trợ và là một bước tiến lớn để Cẩm Nguyên có thể nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh".
Vào thời điểm kinh tế còn suy giảm, dư luận bất ngờ khi Đồng Tâm Group công bố đầu tư vào dự án Cảng Long An rộng 1.935 ha do Đồng Tâm liên kết đầu tư với VinaCapital với số vốn 1 tỷ USD.
Chia sẻ lý do đầu tư, ông Võ Quốc Thắng cho biết: "Cảng Long An sẽ giúp giảm một lượng lớn xe vào TP.HCM và tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu đi thẳng đến các thị trường lớn như Mỹ, châu Âu, nhằm giảm chi phí trung chuyển. Nhưng đây là tầm nhìn 2020 - 2030, còn hiện tại, chúng tôi chỉ mới tập trung vào các tàu 20 - 30 ngàn tấn và một số tàu nhỏ. Cùng với cảng, dự án này là hạng mục liên hệ thống, với kho cảng, khu công nghiệp và khu đô thị”.
Theo ông Đức, đầu tư này kết hợp phát triển các khu công nghiệp, khu kho vận và dịch vụ cảng mà Đồng Tâm đang đầu tư tại Tân Tập, Cần Giuộc, Cần Đước, Long An. Nếu không có cảng, phát triển giao thông đường thủy thì các khu công nghiệp, khu kho vận cũng không thể hoạt động.
Ngược lại, nếu chỉ đầu tư cảng thì không đảm bảo thu hồi vốn. Khi Cảng Long An hoạt động thì đây là nơi tập trung hàng hóa nội địa của Long An, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và là cửa ngõ giao thương trực tiếp từ Long An đi các nước.
Có lẽ, cũng với tầm nhìn xa nên Công ty Tân Hiệp Phát cũng đầu tư vào dự án khu công nghiệp và cảng biển Dr. Thanh với quy mô 718 ha tại Khu Kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Công ty Tân Hiệp Phát sẽ được miễn tiền thuê đất sau khi đầu tư xong dự án.
Cũng theo thỏa thuận đạt được với UBND tỉnh Quảng Nam, Công ty Tân Hiệp Phát còn được quyền sử dụng thương hiệu quế Trà My và cả thương hiệu sâm Ngọc Linh. Tương tự, với lợi thế có quỹ đất rộng, chủ dự án Novaland cũng đang có kế hoạch thực hiện dự án cảng tại Thủ Thừa, Long An.
Vào trung tuần 7/2013, Tập đoàn hoạt động đa ngành của Nhật Bản Maguchi cho biết đang xem xét khả năng hợp tác đầu tư, kinh doanh cảng biển tại tỉnh Bình Định.
Ông Hiroyuki Kawata, Ban Giám đốc Tập đoàn Maguchi, cho rằng: "Tiềm năng và lợi thế của cảng Quy Nhơn là yếu tố quan trọng để Maguchi xem xét vấn đề này trong bối cảnh hoạt động cảng biển tại Nhật Bản ngày càng bị các nước lân cận cạnh tranh gay gắt. Hơn nữa, các nhà đầu tư Nhật cũng đang chuyển hướng vào Việt Nam nên việc vận chuyển hàng hóa qua cảng biển cũng là một nhu cầu cần thiết".
Treo cẩu chờ tàu
Dù "nở rộ” nên rất nhiều cảng biển rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng vì cung vượt cầu. Chẳng hạn, công suất của cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải chỉ khoảng 1 triệu tấn/năm, nhưng do quá nhiều DN đầu tư bến cảng tại đây như TCCT, SITV, Germalink, SSIT, TCIT... nên đã đẩy công suất lên hơn 8 triệu tấn/năm.
Tại khu vực ĐBSCL, hàng chục cảng lớn đã được đầu tư nhưng theo báo cáo của Cảng vụ Hàng hải Cần Thơ, 15 bến cảng hiện nay khai thác chưa đến 50% công suất, các cảng Sa Đéc, Bình Long (An Giang), cảng Cao Lãnh đều luôn trong tình trạng trống vắng.
Theo ông Won Joon Lee, Giám đốc Điều hành Cơ sở Hạ tầng và Giao thông vận tải (AIIT) Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương Accenture:
"Cảng biển là một lĩnh vực đầu tư quy mô, khi quy mô càng lớn, chi phí càng nhỏ, ngược lại, quy mô nhỏ thì chi phí sẽ cao. Và một cảng biển sẽ không hoạt động hiệu quả nếu không liên kết được với chính phủ, hải quan, các công ty cung cấp dịch vụ logistics, hãng tàu... đặc biệt những cảng lớn cần sự đầu tư đồng bộ cả hạ tầng công cộng và hạ tầng bến cảng, nhất là phải có sự quy hoạch cảng biển rõ ràng".
Tuy nhiên, cái khó của kinh doanh cảng biển là ngoài chi phí đầu tư, các DN còn phải có nhiều hoạt động kết nối với các đơn vị liên quan, có chiến lược khách hàng, thiết lập cấu trúc chi phí linh hoạt...
Bên cạnh đó, kinh doanh cảng biển có thời gian thu hồi vốn rất lâu, nhưng trong thời gian đó, cảng biển cũng phải liên tục được nâng cấp nên đòi hỏi phải có nguồn tài chính dồi dào.
440.000 tỷ đồng
Theo quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, tổng nhu cầu vốn đầu tư để phát triển ước tính khoảng 360.000-440.000 tỷ đồng (18-22 tỷ USD); hạ tầng công cộng khoảng 70.000-100.000 tỷ đồng, kết cấu hạ tầng bến 290.000-340.000 tỷ đồng.
Ông Fox Chu, Giám đốc Phụ trách ngành công nghiệp cảng Châu Á - Thái Bình Dương, Ủy viên sáng kiến Accenture trong ngành vận tải và logitics, cũng nhận định:
"Tuy thời điểm hiện tại, Việt Nam có nhiều cảng được đầu tư, nhưng nguyên nhân khiến đầu tư cảng khó duy trì hiệu quả là do việc kết nối trong logistics chưa đồng bộ. Hợp tác giữa các ngành liên quan còn rời rạc, phân phối tải trọng không đều giữa các bến cảng tại Việt Nam thiếu hiệu quả dẫn đến chi phí cao hơn và năng suất thấp hơn".
Thực tế cho thấy, trong năm 2012, các bến cảng Việt Nam chỉ hoạt động 20-30% công suất nên chi phí cao.
Chẳng hạn, một container 40 feet vận chuyển từ Hồng Kông đến Los Angeles có chi phí thấp hơn 28% so với một container chuyển từ TP.HCM, nếu vận chuyển từ Thượng Hải hoặc Thẩm Quyến chi phí sẽ thấp hơn 16%.
Hoặc Cảng Quốc tế Sài Gòn (SPCT) mặc dù có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải đến 50.000 - 70.000 tấn và công suất tiếp nhận là 1 triệu container/năm nhưng do luồng Soài Rạp chưa được nạo vét đến độ sâu cần thiết nên chi phí vào cảng này rất lớn nên các tàu "chê” cảng không vào ăn hàng.
Tương tự, Cảng Trà Nóc (Cần Thơ) được Công ty Lương thực Sông Hậu xây dựng từ những năm 2003, nhưng hiện 90% lượng gạo của Công ty phải vận chuyển lên cảng Cát Lái (TP.HCM) bằng sà lan để xuất khẩu vì tàu trọng tải lớn không thể vào cảng.
Cảng Mỹ Thới (TP. Long Xuyên, An Giang) có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải 50.000 tấn, nhưng do luồng Định An - cửa biển vào các cảng tại Cần Thơ, Đồng Tháp và An Giang bị cạn nên chỉ có thể tiếp nhận và vận chuyển hàng hóa với tàu trọng tải 5.000 tấn trở lại.
Song, ngay cả khi đã chấp nhận giảm phí, chi phí ghé vào các cảng ở Cái Mép - Thị Vải vẫn kém cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Đây là lý do khiến số tàu vận tải biển quốc tế đến và đi từ khu vực cảng Cái Mép - Thị Vải giảm mạnh, từ 16 xuống còn 7 chuyến/tuần khiến các cảng hiện đại được đầu tư lớn ngày càng hoang vắng.
Một khó khăn nữa là đường nối từ cảng vào hệ thống kho của các DN còn chưa hoàn thiện. Cảng Sài Gòn - Hiệp Phước gần như bế tắc trong thời gian dài chỉ vì chưa có đường kết nối.
Hoặc đoạn đường nối từ cảng quốc tế Phú Hữu ra đường Nguyễn Duy Trinh bị trì trệ trong suốt một thời gian dài, đến đầu tháng 7 vừa qua mới hoàn thành. Cảng Sài Gòn - Hiệp Phước lượng hàng tiếp nhận từ đầu năm đến nay chỉ vào khoảng 94.000 tấn do tuyến đường D3 dẫn vào cảng đang bị tắc vì không có vốn.
Cuộc chơi quá sức?
Dù xác định đầu tư vào cảng biển và thủy điện là những dự án chiến lược, nhưng chỉ qua một vài năm suy thoái kinh tế, đã có không ít chủ đầu tư phải thoái vốn khỏi lĩnh vực này.
Dự án Cảng Quốc tế Long An của liên doanh Đồng Tâm - VinaCapital chưa hoạt động thì VinaCapital đã thoái vốn khỏi dự án với lý do kinh tế khó khăn. Không ai nói ra nhưng điều dễ hiểu việc rút vốn này của VinaCapital chung quy cũng chỉ xoay quanh bài toán đầu tư và lợi nhuận.
Bởi theo đánh giá của ông Fox Chu, đầu tư khai thác cảng biển đòi hỏi vốn lớn, vòng đời dự án lại dài, khả năng hoàn vốn lâu, rủi ro cao. Thực tế, Vinalines cũng từng thừa nhận, nguyên nhân chính của việc thua lỗ của tập đoàn này là do thị trường vận tải biển suy yếu, giá cước vận tải giảm liên tục trong thời gian dài do sự dư thừa nguồn cung.
Theo kế hoạch đầu tư Cảng Hoa Sen- Gemadept, đến năm 2010, cảng đi vào hoạt động giai đoạn 1 với công suất 2 triệu tấn/năm. Giai đoạn 2 từ năm 2010 bảo đảm cho 4 triệu tấn hàng thông qua cảng mỗi năm.
Tuy nhiên, kế hoạch này đã không diễn ra theo mong muốn, trong khi lại có quá nhiều khó khăn, chi phí duy trì hoạt động cảng lớn nên nếu tiếp tục theo đuổi dự án, khả năng thiếu vốn sẽ làm ảnh hưởng đến kinh doanh chung của Công ty.
Vì vậy, HSG đã quyết định chuyển nhượng phần góp vốn dự án này. Ông Vũ Văn Thanh, Phó tổng Giám đốc Tài chính của HSG, cho biết, kế hoạch chuyển nhượng này nằm trong chiến lược thu hẹp các mảng đầu tư ngoài ngành để tập trung vốn vào lĩnh vực kinh doanh chính là tôn và thép.
Ở lĩnh vực đầu tư thủy điện, ông Nguyễn Hữu Luật, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nhân Luật, cho biết, điện năng là một lĩnh vực đầu tư cần vốn lớn và đầu tư dài hơi. Song, các dự án đầu tư vào thủy điện của Công ty Nhân Luật tại Đồng Nai đã theo đuổi gần 5 năm nhưng hiện vẫn đang vướng một số thủ tục.
"Mấy năm nay, chúng tôi vẫn phải nuôi quân, chuẩn bị nguồn lực, đầu tư trang thiết bị với chi phí không nhỏ nên dự án càng lâu, càng lỗ. Vì vậy, chúng tôi quyết định sẽ phải buông dự án đầu tư này để tập trung nguồn lực, tài chính cho ngành kinh doanh cốt lõi".
Mới đây, hàng loạt DN đầu tư thủy điện tại Gia Lai phải trả lại giấy chứng nhận đầu tư vì không đủ khả năng triển khai dự án như Công ty CP Đầu tư và Phát triển điện năng Đức Long Gia Lai, Công ty CP Công nghiệp và Thủy điện Bảo Long Gia Lai. Qua khảo sát, khó khăn về vốn là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nhiều công trình thủy điện không đủ năng lực thi công.
500 triệu tấn
Trên 90% hàng xuất, nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển và dự báo khối lượng hàng hóa thông qua các cảng Việt Nam đến năm 2015 lên tới 500 - 600 triệu tấn, đến năm 2020 đạt khoảng 900 - 1.100 triệu tấn. Đặc biệt, hàng container qua cảng biển Việt Nam đến năm 2015 sẽ đạt 12,3 - 15,2 triệu TEU, đến năm 2020 đạt 20,6 - 29,2 triệu TEU. Đó là hấp lực rất lớn khiến các dự án đầu tư cảng biển ngày càng nhiều.
Các cảng, kể cả nội địa và quốc tế, đều không nghĩ rằng rủi ro suy thoái kinh tế có thể xảy ra và đã quá kỳ vọng vào những con số tốt đẹp đầy ấn tượng về tình hình tăng trưởng cao đã nhìn thấy vào năm 2007. Chưa kể, một số nhà đầu tư vào cảng biển cũng nhắm tới mục đích "lướt sóng" bán dự án.
Trong khi các dự án thủy điện gặp khó vì thủ tục hoặc không có vốn đầu tư, thì cuối năm 2012, với các dự án thủy điện đã vận hành có doanh thu ổn định nhưng Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) vẫn đồng ý bán bớt hơn 5% cổ phần của Công ty Thủy điện HAGL cho một nhà đầu tư Đài Loan với mức giá hơn 30.000 đồng/cổ phiếu, thu về khoản lợi nhuận hơn 200 tỷ đồng.
Với khởi động khả quan này, ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HAGL Group, cho biết: "Nếu có DN hoặc tập đoàn nào muốn mua một phần hoặc toàn bộ lĩnh vực thủy điện, HAGL sẽ nhượng lại".
Đầu tư vào 17 dự án thủy điện của HAGL được tính là dài hạn với tổng vốn đầu tư là 7.500 tỷ đồng, thêm thuận lợi huy động vốn khi đó cũng khá dễ dàng do tình hình tài chính tốt cùng nguồn lợi nhuận lớn do bất động sản mang lại. Bên cạnh đó, chủ trương của ông Đức lúc đó là chỉ dùng tiền thu được từ thủy điện để đầu tư mới cho thủy điện.
Nhưng trong 2 năm 2013-2014, HAGL chỉ thu về 440 tỷ đồng/năm từ lĩnh vực này, chưa kể chi phí nên với dòng tiền thu về "nhỏ giọt", cùng với việc huy động thêm vốn khó khăn như hiện nay, thì đầu tư thêm cho thủy điện không khác gì là "chôn vốn" và làm ảnh hưởng đến các dự án dài hơi khác của Tập đoàn.
Vì vậy, buông một số dự án thủy điện, chiến lược của HAGL là dành nguồn vốn tiếp tục tập trung vào các dự án trọng điểm là cao su, mía đường tại Lào và bất động sản, thủy điện tại Myanmar. Bởi theo tính toán của ông Đức, bán các dự án thủy điện bao gồm cả các dự án hoạt động và đang trong giai đoạn đầu tư, HAGL sẽ có tiền ngay để tập trung cho các lĩnh vực khác.
"Bởi đầu tư ra nước ngoài hiện nay là bài toán đầu tư bền vững của HAGL, nếu không linh hoạt xoay trở, cơ hội đầu tư sẽ mất", ông Đức lý giải.

Chia sẻ cùng bạn chuyện cà phê Việt thành tên thị trấn ở Mỹ

Sự khác biệt của cà phê PhinDeli so với các loại cà phê khác, theo ông Đỗ Quốc Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty CP PhinDeli, là sản phẩm 100% cà phê Việt, được chọn lựa từ những hạt cà phê có chất lượng đồng đều, không có tồn dư thuốc trừ sâu, chất bảo quản, không tẩm ướp hóa chất độc hại, không có chất tạo đắng, tạo mùi… Sản phẩm được sản xuất tại nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP.
PhinDeli, thương hiệu cà phê 100% Việt Nam siêu sạch, vừa được ra mắt tại Việt Nam và sẽ là tên mới của thị trấn Buford -Mỹ có lịch sử 147 năm.
Lãnh đạo Công ty CP PhinDeli giới thiệu sản phẩm cà phê với khách hàng
Ngày 30/7, ông Phạm Đình Nguyên, người Việt đầu tiên bỏ ra 900.000 USD để đấu giá mua lại thị trấn Burfod - Mỹ cách đây hơn một năm, chính thức công bố việc đầu tư thương hiệu cà phê 100% Việt Nam siêu sạch, an toàn mang thương hiệu PhinDeli. Bước đệm để đưa cà phê an toàn, chất lượng của Việt Nam ra nước ngoài thông qua việc đổi tên một thị trấn ở Mỹ.
“Không gì là không thể!”
Sở hữu một thị trấn ở Mỹ là kỳ tích của người Việt từng làm ngạc nhiên cho cả thế giới. Và việc bỏ ra gần 1 triệu USD mua thị trấn có diện tích chỉ 4 ha để làm gì vẫn là câu hỏi mà bản thân doanh nhân Phạm Đình Nguyên (hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty CP PhinDeli) luôn đau đáu trong suốt thời gian qua.
Cùng một tiêu chuẩn, chất lượng 
Ông Phạm Đình Nguyên cho biết tất cả sản phẩm xuất sang Mỹ hay bán tại Việt Nam của PhinDeli đều có tiêu chuẩn và chất lượng như nhau. Chỉ khác là những dòng sản phẩm cao cấp hơn sẽ được chú trọng xuất sang Mỹ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Do tính chất xuất khẩu, kinh doanh hàng hóa tại thị trường quốc tế nên giá bán sản phẩm cà phê PhinDeli tại Mỹ dự kiến sẽ cao gấp đôi tại thị trường Việt Nam. Tất cả sản phẩm PhinDeli bán sang Mỹ đều được đăng ký với Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA).
“Sẽ rất buồn cười nếu ai đó biết tôi là người không biết thưởng thức cà phê cũng như không rành về cà phê mà lại làm nên thương hiệu PhinDeli và đưa nó sang đất Mỹ. Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua, ý tưởng về việc đưa một sản phẩm có thế mạnh, đậm nét văn hóa Việt để gắn với Buford luôn ở trong đầu tôi. Tại sao không là cà phê với phong cách pha phin đặc trưng của người Việt. Nó đáng để quảng bá, để giới thiệu với thế giới quá đi chứ!”- ông Phạm Đình Nguyên chia sẻ.
Cùng với đồng nghiệp là ông Đỗ Quốc Tuấn (người từng làm giám đốc marketing tại Việt Nam cho Tập đoàn Kraft Foods, tập đoàn hàng đầu thế giới về cà phê), ông Nguyên đã bắt tay vào gầy dựng PhinDeli trong sự nghi ngờ của nhiều người bởi sự cạnh tranh của một thị trường cà phê khá khốc liệt.
Tuy vậy, từ ý tưởng “không gì là không thể!” như khi tham gia đấu giá mua thị trấn Buford, ông Nguyên cho biết chính sự khác biệt của PhinDeli về chất lượng, an toàn và với bước đi riêng bởi sự hợp tác của một đơn vị có kinh nghiệm về ngành cà phê hơn 50 năm qua, ông đã tự tin rất nhiều về sự thành công của PhinDeli. Điều gây chú ý là thị trấn Buford sẽ đổi tên thành PhinDeli trong thời gian tới cùng với việc mở kinh doanh sản phẩm PhinDeli trên trang mạng amazon...
Đưa cà phê Việt siêu sạch đến Mỹ
Sự khác biệt của cà phê PhinDeli so với các loại cà phê khác, theo ông Đỗ Quốc Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty CP PhinDeli, là sản phẩm 100% cà phê Việt, được chọn lựa từ những hạt cà phê có chất lượng đồng đều, không có tồn dư thuốc trừ sâu, chất bảo quản, không tẩm ướp hóa chất độc hại, không có chất tạo đắng, tạo mùi… Sản phẩm được sản xuất tại nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP.
Cũng theo ông Đỗ Quốc Tuấn, hiện sản phẩm PhinDeli đã có mặt tại một vài siêu thị, dự kiến sẽ mở rộng tại tất cả các siêu thị, chợ, cửa hàng tạp hóa trên cả nước trong thời gian sớm nhất. Đối với thị trường Mỹ, PhinDeli sẽ được giới thiệu cho khách dùng miễn phí tại hệ thống cửa hàng rộng khoảng 200 m2 được thiết kế ấn tượng với bức tranh dài 10 m.
Tranh được các nghệ sĩ người Việt ghi khắc lại quá trình trồng, chăm sóc, chế biến đến thưởng thức cà phê của người Việt. Đợt hàng đầu tiên của PhinDeli sẽ có 2 nhóm sản phẩm là siêu sạch (có 3 loại: ngày mới, giọt đắng, moka) và thượng hạng (Gold, Supreme, Espresso). Giá bán trung bình từ 140.000- 360.000 đồng/kg.
Nhiều người cho rằng thị trường cà phê Việt Nam đang sôi động với nhiều thương hiệu, kể cả các thương hiệu ngoại, vậy PhinDeli sẽ cạnh tranh và tồn tại như thế nào khi không có một hệ thống quán cà phê để quảng bá?
Ông Đỗ Quốc Tuấn cho rằng thị trường Việt Nam còn rất nhiều cơ hội cho bất kỳ nhãn hiệu cà phê nào bởi nhu cầu sử dụng cà phê của người Việt rất lớn. Theo ông Tuấn, trung bình 1 năm, mỗi người Việt dùng 1 kg cà phê, như vậy mỗi năm phải có gần 90 triệu kg cà phê được tiêu thụ trong nước. Còn ở Brazil thì tỉ lệ người dùng cà phê cao gấp 5 lần của Việt Nam.

Câu chuyện về Ôtô nhập khẩu hướng đến “ngày mùa”

Cũng theo Tổng cục Thống kê, cộng dồn 7 tháng năm 2013, ước tính có khoảng 20.000 ôtô được nhập khẩu về nước, đạt giá trị kim ngạch 369 triệu USD, tăng 26% về lượng và tăng 8,7% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong bối cảnh thị trường ôtô vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi những khó khăn, đây chính là một tín hiệu mừng.
Nhìn vào thị trường ôtô lúc này cũng dễ nhận thấy không khí khá rộn ràng khi đã và đang có thêm nhiều hãng xe mới gia nhập, các doanh nghiệp cùng đua nhau tung ra thị trường hàng loạt các sản phẩm mới.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, trong tháng 6/2013 đã có 4.000 ôtô được nhập khẩu, đạt giá kim ngạch 61 triệu USD.
Mặc dù con số ước tính tháng 7 mà cơ quan này đưa ra có sự tụt lùi so với tháng 6, song so sánh số liệu của Tổng cục Hải quan trong 15 ngày đầu tháng, kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc thực tế vẫn đang cho thấy sự đi lên.
Cụ thể, thống kê 15 ngày đầu tháng 7 (kỳ 1) của Tổng cục Hải quan cho biết, đã có 1.165 xe nhập khẩu, đạt giá trị kim ngạch 21 triệu USD, nhỉnh hơn chút ít cả về lượng lẫn giá trị so với cùng kỳ tháng 6.
Thực tế các số liệu kỳ 1 thường được dùng làm cơ sở để Tổng cục Thống kê đưa ra các con số ước tính cho cả tháng. Vì vậy, khả năng kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc tháng 7 sau khi đã có thống kê đầy đủ tiếp tục tăng lên so với tháng 6 cũng là hoàn toàn dễ hiểu.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, cộng dồn 7 tháng năm 2013, ước tính có khoảng 20.000 ôtô được nhập khẩu về nước, đạt giá trị kim ngạch 369 triệu USD, tăng 26% về lượng và tăng 8,7% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong bối cảnh thị trường ôtô vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi những khó khăn, đây chính là một tín hiệu mừng.
Một số nhận định rằng, sự hồi phục của cả thị trường ôtô lắp ráp trong nước (CKD) lẫn nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) thời gian qua và tới đây phụ thuộc vào một số nguyên nhân.
Trong đó có thể kể đến những dấu hiệu đi lên của nền kinh tế và một số thị trường chủ chốt khác mà phần nhiều xuất phát từ niềm tin, tâm lý tiêu dùng, các giải pháp kích cầu của doanh nghiệp và đáng chú ý là động thái giảm lệ phí trước bạ từ Bộ Tài chính.
Nhìn vào thị trường ôtô lúc này cũng dễ nhận thấy không khí khá rộn ràng khi đã và đang có thêm nhiều hãng xe mới gia nhập, các doanh nghiệp cùng đua nhau tung ra thị trường hàng loạt các sản phẩm mới.
Đó là sự gia nhập của các thương hiệu mới như Rolls-Royce, Mini, Lexus hay Bentley...; đó là những dòng sản phẩm hoàn tòan mới như Honda City, Nissan Sunny, BMW 1 series, BMW Z4, Mercedes A-Class, E-Class, S-Class hay G-Class...
Do đó, sức nóng của thị trường giai đoạn cuối năm và áp Tết nguyên đán, vốn vẫn được coi là “ngày mùa” của ngành ôtô, xem ra là một hiện thực. Và sự hồi phục của kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc hẳn cũng là đáng hướng đến “ngày mùa” ít nhiều hứa hẹn này.

Cùng bạn khám phá chuyện thị trường sơn: Ngoại ép nội "đổi màu

Tuy nhiên, thị trường này tại Việt Nam đang cạnh tranh rất gay gắt, chỉ cần chậm chân vào thời điểm này là có nguy cơ mất thị phần". Do đó, mặc dù chiếm đến gần 65% thị phần với nhiều lợi thế về thương hiệu, tài chính, sản phẩm đa dạng, nhưng các doanh nghiệp (DN) sản xuất sơn có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đua nhau mở rộng đầu tư.
Ước tính thị trường sơn Việt Nam sẽ đạt giá trị 2,5-3 tỷ USD vào năm 2022
Sơn ngoại gia tăng sức ép
Theo Hiệp hội Sơn và Mực in Việt Nam, tổng sản lượng sơn tại Việt Nam đạt gần 250 triệu lít, trong đó, mảng sơn trang trí đã chiếm 180 triệu lít và hầu hết các hãng sơn lớn của thế giới dưới hình thức đầu tư 100% vốn hoặc hợp tác sản xuất với các công ty sơn Việt Nam đều lần lượt xuất hiện tại Việt Nam.
Ông Chalermsak Pimolsri, Giám đốc Marketing Công ty Sơn 4 Oranges, cho biết: "Nhu cầu xây dựng, vật liệu xây dựng tại Việt Nam còn rất cao, hơn nữa, mức sử dụng sơn trang trí của đầu người mới ở mức 1,5 lít, trong khi mức bình quân ở Thái Lan là 4 lít và ở các nước phát triển bình quân 7 lít.
Tuy nhiên, thị trường này tại Việt Nam đang cạnh tranh rất gay gắt, chỉ cần chậm chân vào thời điểm này là có nguy cơ mất thị phần". Do đó, mặc dù chiếm đến gần 65% thị phần với nhiều lợi thế về thương hiệu, tài chính, sản phẩm đa dạng, nhưng các doanh nghiệp (DN) sản xuất sơn có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đua nhau mở rộng đầu tư.
Với công suất 100 triệu lít sơn, để tối đa công suất, chiến lược kinh doanh năm 2013 của 4 Oranges là tập trung nhiều cho thị trường bán lẻ cùng với mảng dự án, các công trình lớn, đồng thời cũng đầu tư nhiều cho dịch vụ, hệ thống các trung tâm phối và pha màu.
Dự kiến đến cuối năm 2013, 4 Oranges có 2.000 trung tâm phối và pha màu trên cả nước. Chạy đua cùng đối thủ, Công ty Sơn Jotun cũng tăng vốn đầu tư lên 16,1 triệu USD để mở rộng nhà máy, nâng công suất lên 25 triệu lít sơn/năm.
Ông Đào Tuấn Khôi, Tổng giám đốc Công ty TNHH Jotun Việt Nam, cho biết về chiến lược kinh doanh của Công ty: "Hiện Jotun đang duy trì mức tăng trưởng 20%, doanh thu hằng năm khoảng 50 triệu USD. Mới đây, Jotun còn đầu tư một triệu USD để triển khai ERP quản trị nguồn lực để hoạt động hiệu quả, chuyên nghiệp hơn".
Mặc dù bị ảnh hưởng do nhu cầu thị trường giảm sút, nhưng lợi nhuận trong năm 2012 của AkzoNobel tại các thị trường Đông Nam Á, Thái Bình Dương tương đối tích cực với doanh thu 15,4 tỷ euro, tăng 5% so với 2011.
Theo ông David Teng, Tổng giám đốc Công ty Sơn AkzoNobel Việt Nam, để tiếp tục củng cố vị thế thị trường, AkzoNobel đầu tư thêm 13 triệu Euro cho nhà máy tại Bình Dương nhằm tối ưu hóa việc sản xuất sơn.
Sơn nội "đổi màu"
Các thương hiệu sơn nước ngoài vẫn chiếm thị phần đến 65%, trong đó sản lượng lớn nhất thuộc về Akzo (30.000 tấn/năm) và Expo (40.000 tấn/năm). Tuy năng lực cạnh tranh của các hãng sơn nội địa còn kém hơn so với các hãng sơn ngoại nhưng những năm gần đây, nhiều thương hiệu sơn nội vẫn gia nhập thị trường với nhiều thương hiệu mới như Kova, Đồng Tâm, Tison, Alphanam, Hòa Bình...
Một số thương hiệu trong nước có uy tín và sản lượng cao, thậm chí cao hơn cả các thương hiệu sơn nước ngoài, như Kova 5.000 tấn/năm, Tison 5.000 tấn/năm. Mặc dù vậy, các hãng sơn nội chủ yếu bán ở các tỉnh và phân phối thông qua kênh đại lý với mức chiết khấu cao, còn thị phần tại các thành phố lớn thì rất khó chen chân.
Theo ý kiến của nhiều đại lý, DN sản xuất sơn trong nước mới chỉ khai thác ở mảng sơn trang trí nội-ngoại thất, chủng loại sơn chưa nhiều, chưa chú trọng đến quảng bá thương hiệu nên vẫn yếu thế hơn các thương hiệu sơn nước ngoài.
Để giữ sản lượng và thị phần, ông Hoàng Văn Hùng, Giám đốc Công ty TNHH Sơn Nero, cho rằng, DN nội không có con đường nào khác là phải tự đổi mới, đa dạng sản phẩm. Vì vậy, Nero mới đưa ra dòng sản phẩm mới sơn chống thấm trang trí Nero Cement Paint có chất lượng tương đương sản phẩm ngọai nhưng lại có giá bán thấp hơn từ 30 - 50%.
Bên cạnh đó, Công ty còn có các sản phẩm sử dụng công nghệ nano như dòng sản phẩm sơn ngoại thất Nero Weather durable và Nero Nano Supershield ứng dụng công nghệ Nano UV Shield có tính năng chống carbon hóa cao, độ bền màu được duy trì lâu dài.
Đáng chú ý là một số DN trong nước đã mạnh dạn chinh phục thị trường nước ngoài. Chẳng hạn, ngoài dòng sơn trang trí, Sơn Hòa Bình đã chọn sản xuất sơn đá cho phân khúc cao cấp với thương hiệu Hodastone.
Dù giá trung bình cao hơn gấp 2-3 lần so với sơn nước nhưng sơn đá Hodastone vẫn được ưa chuộng vì có tính thẩm mỹ và độ bền cao cho các công trình ven biển có nắng gió nhiều, hơi muối, hoặc khí hậu lạnh giá như Nhật Bản, châu Âu.
Tương tự, sơn Nova cũng hấp dẫn người tiêu dùng với hàng loạt tính năng mới như chống cháy, sử dụng sơn áo chống đạn, diệt khuẩn, chống bám bụi... Sơn Kova đã tạo được thương hiệu và tìm được chỗ đứng tại thị trường Việt Nam, nhưng hướng đi chính hiện nay của Kova vẫn là xuất khẩu.
PGS - TS. Nguyễn Thị Hòe, Chủ tịch Tập đoàn Sơn Kova, khẳng định: "Đẩy mạnh xuất khẩu vẫn là định hướng phát triển lâu dài của Tập đoàn Sơn Kova. Hiện tại Kova là công ty sơn Việt Nam đầu tiên xuất khẩu sơn sang Singapore và Indonesia, những thị trường có những đòi hỏi rất cao về chất lượng".

Vì sao kích cầu du lịch lại cần sự đồng bộ?

Ngoài giá máy bay, giá dịch vụ du lịch tại điểm đến ở các địa phương cũng giảm đã giúp giá tour kích cầu trọn gói giảm thêm 12-15% so với năm 2012 (giá tour năm 2012 giảm 20-30%). Chương trình đã giúp giá các tour du lịch nội địa thấp hơn nhiều so với giá các tour đi các nước Đông Nam Á, xóa nghịch lý "du lịch nước ngoài rẻ hơn du lịch nội địa" đã diễn ra nhiều năm qua.
Khách có tăng
Chương trình kích cầu du lịch nội địa năm 2013 do Hiệp hội Du lịch TP.HCM (HTA) và Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam (VNA) tổ chức tại TP.HCM đã triển khai sớm hơn so với những năm trước, bắt đầu từ ngày 1/4 đến 31/12.
Theo chương trình, VNA áp dụng giá kích cầu dành cho các doanh nghiệp lữ hành tham gia chương trình với mức giảm 38%-52% tùy tuyến bay và hạng vé trên các đường bay TP.HCM đi Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Nha Trang và Phú Quốc.
Ngoài giá máy bay, giá dịch vụ du lịch tại điểm đến ở các địa phương cũng giảm đã giúp giá tour kích cầu trọn gói giảm thêm 12-15% so với năm 2012 (giá tour năm 2012 giảm 20-30%). Chương trình đã giúp giá các tour du lịch nội địa thấp hơn nhiều so với giá các tour đi các nước Đông Nam Á, xóa nghịch lý "du lịch nước ngoài rẻ hơn du lịch nội địa" đã diễn ra nhiều năm qua.
Trong đó, tour miền Bắc 4 ngày giá còn khoảng 6 triệu đồng; tour Hạ Long - Sapa 6 ngày 5 đêm giá khoảng 8 triệu đồng, tour khám phá miền Trung 5 ngày 4 đêm gần 6 triệu đồng...
Điều đáng nói là sau hai tháng hợp tác với VNA để bán tour trọn gói giảm giá, nhóm doanh nghiệp du lịch tham gia chương trình kích cầu 2013 đã bán được 4.588 khách, tăng gấp 7 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Ông Trần Thế Dũng, Phó trưởng Nhóm Khuyến mãi kích cầu du lịch nội địa, cho biết, thực tế số khách mua tour khuyến mãi còn nhiều hơn nữa vì số liệu trên mới ghi nhận từ 11 trong 12 công ty được mua vé máy bay khuyến mãi của VNA để bán tour kích cầu.
"Ngày càng nhiều người đắn đo về giá khi mua tour, muốn mua tour có giá rẻ hơn nên những tour kích cầu đã đáp ứng được nhu cầu này. Số lượng đặt chỗ trong dịp hè này cũng rất tốt", ông Dũng nói.
Tuy lượng khách mua tour tăng nhưng vẫn có những trục trặc vì không được triển khai đồng bộ. Chẳng hạn như chương trình "Kích cầu du lịch nội địa" tại TP.HCM chỉ có HTA và Nhóm Khuyến mãi đứng ra làm.
Theo các doanh nghiệp, do nhiều nơi không nhận được sự hỗ trợ từ Tổng cục Du lịch nên các đơn vị cung ứng của các tỉnh-thành thường đứng ngoài cuộc, hoặc có tham gia nhưng theo kiểu "tát nước theo mưa".
Một số khác thì tham gia theo kiểu hình thức, nếu không muốn nói là... lừa. Vì vậy, việc giảm giá giữa các đơn vị, các địa phương không được thực hiện một cách đồng bộ nên thực tế các đơn vị lữ hành rất khó khăn khi triển khai các gói khuyến mãi, với nhiều ưu đãi cho du khách.
Giá chưa giảm nhiều
Ngoài việc giảm giá để thu hút khách, mới đây, Tổng cục Du lịch đã khai trương trang web về kích cầu du lịch. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều doanh nghiệp, chương trình không mấy ấn tượng vì năm nay sức mua tour thấp do kinh tế khó khăn, quảng bá muộn, lại không có gì mới so với các năm trước.
Hơn nữa, chương trình kích cầu năm nay do Tổng cục Du lịch phát động vừa chậm lại vừa không hợp lý bởi thời điểm kêu gọi các doanh nghiệp hưởng ứng giảm giá chỉ nhắm vào mùa thấp điểm.
Trong khi đó các hãng hàng không, HTA, những nhóm khuyến mãi ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng đã khởi động từ đầu năm. Vì thế, các đơn vị lữ hành không thể giảm giá sâu hơn khi những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đều có cớ để bất hợp tác.
Phát biểu tại hội nghị kích cầu du lịch mới đây, ông Phan Đình Huê, Giám đốc Công ty Du lịch Vòng Tròn Việt, cho rằng, chính việc giảm giá giữa các đơn vị, các địa phương không được thực hiện một cách đồng bộ nên các đơn vị lữ hành rất khó khăn khi triển khai các gói khuyến mãi với nhiều ưu đãi sâu cho du khách.
"Nếu các nhà cung ứng dịch vụ không giảm giá hoặc giảm giá hình thức thì đơn vị lữ hành cũng khó có thể giảm giá sâu được", ông Huê phân tích.
Không chỉ bất cập trong việc triển khai, thời gian qua, dư luận cho rằng, các chương trình khuyến mãi ảo nhiều hơn thật! Bởi, trên thực tế, đã có nhiều công ty đổi giờ bay để cắt bớt bữa ăn, điểm tham quan, bán vé phụ thu... nhằm tăng lợi nhuận.
Và thị trường vẫn tồn tại nhiều hình thức du lịch giảm giá, vì thế, khách du lịch rất khó xác định đâu là giảm giá kích cầu thật sự, đâu là giảm theo kiểu tát nước theo mưa. Trước dư luận này, đã có nhiều cuộc họp giữa VNA, Hiệp hội Du lịch, công ty lữ hành... nhằm cải thiện giờ bay để tránh sự hiểu nhầm và thiệt thòi về phía du khách.
"Nhưng cũng cần thông cảm với VNA bởi họ không thể dành tất cả những chuyến bay giờ đẹp để kinh doanh giá rẻ, cũng không thể thỏa mãn được đơn đặt hàng của tất cả các hãng lữ hành", ông Dũng chia sẻ.
Theo phân tích của các nhà kinh doanh du lịch, hiện nay, giá vẻ chỉ chiếm khoảng 33% trong giá tour trọn gói. Vì vậy, các hãng lữ hành phải cắt bớt lợi nhuận ít nhất 8% vừa để giám giá sâu cạnh tranh thu hút khách, vừa để thực hiện cam kết với VNA.
"Sản phẩm du lịch của từng thành viên trong nhóm khuyến mãi vốn không giống nhau, lại chọn đối tác cung ứng dịch vụ cũng khác nhau nên giá tour sẽ có khoảng cách. Vì vậy, rất khó kiểm soát giá cả. Tuy nhiên, mặt bằng giá hiện nay giữa công ty du lịch không chênh lệch nhiều vì họ phải tự điều chỉnh để cạnh tranh", ông Dũng khẳng định.
Để giải quyết những vướng mắc này nhằm mang đến chất lượng tour tốt nhất với giá thấp nhất, nhiều doanh nghiệp đề nghị chương trình nên được hỗ trợ từ phía nhà nước như giảm thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp tương tự chương trình "Ấn tượng Việt Nam 2009".
Đề xuất là vậy nhưng hiện nay, HTA và Nhóm Khuyến mãi vẫn kiên trì vận động các hiệp hội du lịch địa phương hưởng ứng giảm giá, đồng thời với việc tổ chức nhiều đoàn famtrip khảo sát tour mới kết hợp ký kết hợp tác kích cầu. Với những hoạt động này, hy vọng thời gian sắp tới giá tour nội địa sẽ giảm sâu hơn.

Cùng phân tích :Mỹ Hảo - Unilever: Cuộc đấu không cân sức

Tuy nhiên, chiếm lĩnh thị trường nông thôn cũng không phải là điều dễ dàng đối với Mỹ Hảo. Unilever với tiềm năng tài chính mạnh, đội ngũ nhân viên hùng hậu đã đưa ra nhiều chiêu tiếp thị, quảng cáo rầm rộ, hoa hồng cho đại lý hấp dẫn đã lấn áp các doanh nghiệp nước rửa chén trong nước, trong đó có Mỹ Hảo.
Thực tế trái với tin đồn, theo ông Lương Vạn Vinh, Tổng giám đốc Công ty CP Hóa mỹ phẩm Mỹ Hảo, Mỹ Hảo tiếp tục đầu tư trang thiết bị, nhà xưởng, dây chuyền hiện đại tại xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh, TP.HCM, mở rộng quy mô sản xuất từ 16.000 m2 lên 50.000 m2 để tăng số lượng sản phẩm.
Cho tới nay, nước rửa chén Mỹ Hảo vẫn là sản phẩm chủ lực, chiếm 40% thị phần và 65% doanh thu của Công ty. Năm 2012, doanh số của Mỹ Hảo đạt 960 tỷ đồng, doanh thu đạt trung bình 80 tỷ đồng/tháng.
Sau khi bị Unilever chiếm lĩnh thị trường nước rửa chén bằng sản phẩm Sunlight, Mỹ Hảo chuyển hướng đầu tư cho hệ thống phân phối, tiếp thị nhắm đến phân khúc thị trường nông thôn.
Đồng thời, Mỹ Hảo xây dựng được mạng lưới phân phối với 126 nhà phân phối lớn ở các tỉnh-thành trên toàn quốc và đặt mục tiêu trong vòng bán kính 40 km có một nhà phân phối chính thức để từ đó sản phẩm lan tỏa đi khắp nơi...
"Trong số 600 cán bộ, nhân viên, thì đội ngũ bán hàng, tiếp thị của Mỹ Hảo là hơn phân nửa. Cùng một sản phẩm Mỹ Hảo, dù được bán ở tỉnh Lạng Sơn, TP.Đà Nẵng, TP.HCM hay Bạc Liêu, Cà Mau thì giá vẫn đồng nhất như nhau", ông Vinh cho biết.
Đây vừa là chiến thuật để né sự cạnh tranh quyết liệt ở thị trường thành phố, vừa khắc phục sai lầm của Mỹ Hảo trong quá khứ, dẫn đến việc mất thị trường vào tay Unilever.
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, chiếm đến hơn 50% thị phần của thị trường nội địa, Mỹ Hảo dường như ít quan tâm đến việc xây dựng kênh phân phối, thậm chí cũng không tạo ra một giá bán lẻ chung mà chỉ giao hàng cho các đại lý rồi để tự họ quyết định giá bán.
Đến nay, thay vì bỏ chi phí cho truyền thông, quảng cáo trên truyền hình, Mỹ Hảo tập trung đầu tư cho khâu bán hàng, đa dạng hóa sản phẩm như xà bông cục, nước lau sàn nhà, nước xả vải. Công ty cũng đưa ra các dòng sản phẩm mới như Hương Chanh, Trà Xanh và 3X Đậm đặc...
Tuy nhiên, chiếm lĩnh thị trường nông thôn cũng không phải là điều dễ dàng đối với Mỹ Hảo. Unilever với tiềm năng tài chính mạnh, đội ngũ nhân viên hùng hậu đã đưa ra nhiều chiêu tiếp thị, quảng cáo rầm rộ, hoa hồng cho đại lý hấp dẫn đã lấn áp các doanh nghiệp nước rửa chén trong nước, trong đó có Mỹ Hảo.
Từ chỗ chiếm trên 50% thị phần, nước rửa chén Mỹ Hảo chỉ còn lại trên 40%, những đại lý lớn của Mỹ Hảo dần rơi vào tay Unilever. Để đưa hàng hóa đến những nơi hẻo lánh, Unilever tổ chức lực lượng bán hàng hơn 100.000 người phân bổ khắp cả nước. Theo một báo cáo của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, trung bình ở mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 34 điểm bán lẻ của Unilever.
Bên cạnh đó, tại hầu hết thị trường trên thế giới, yếu tố chính làm nên sự thành công của Unilever trong kế hoạch thu hút khách hàng chính là các chương trình quảng cáo khuyến mại được thực hiện liên tục. Kinh phí cho hoạt động này chiếm 1% giá trị hàng hóa.
Trong khi đó, khó khăn khác mà Mỹ Hảo và các DN ngành hóa mỹ phẩm trong nước đang gặp phải hàng Trung Quốc nhái nhãn hiệu Việt Nam tràn lan ở các chợ khiến hàng của Việt Nam khó trụ nổi. Cửa vào các siêu thị lại càng khó khăn hơn.
Đến nỗi tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2013 do Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM tổ chức mới đây, bà Lã Thị Lan - Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, than phiền và đề nghị các cơ quan chức năng và các siêu thị cần công khai tiêu chí để hàng Việt sản xuất trong nước có thể vào được các siêu thị khi cạnh tranh với các thương hiệu tầm trung như Lix, Net và nhãn hàng riêng giá rẻ của siêu thị.
Trước các khó khăn này, Mỹ Hảo chỉ đặt ra tăng trưởng doanh thu năm nay là 15%. 2011 đạt mức tăng 10%. Năm 2012, Mỹ Hảo đặt mục tiêu mức tăng là 25% nhưng kinh tế khó khăn cũng như những điểm yếu nội tại khiến Công ty chỉ hoàn thành được 12%.

Khám phá chuyện đầu tư ra nước ngoài từ bài học Hoàng Anh Gia Lai

Thứ ba, phải có được sự đồng tình ủng hộ của cư dân địa phương trong việc phát triển dự án trên đất của họ. Một sai lầm mà các nhà phát triển dự án thường mắc phải là cứ cho rằng họ biết điều gì mà người dân địa phương cần. Người dân trong khu vực phát triển dự án cần được cung cấp đầy đủ thông tin để có thể đưa ra các quyết định chính xác liên quan đến quyền lợi của họ.
Cách đây không lâu, Global Witness, tổ chức phi chính phủ hoạt động vì môi trường có trụ sở tại London, đã tung ra bản báo cáo có tên “Các ông trùm cao su”, trong đó nêu lên những tác động môi trường và xã hội gây ra bởi hoạt động đầu tư vào các đồn điền cao su quy mô lớn ở Campuchia và Lào. 
Bản báo cáo đã thu hút sự chú ý của nhà đầu tư và giới truyền thông Việt Nam vì có 2 doanh nghiệp lớn đã được điểm mặt trong báo cáo là Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG).
Theo báo cáo, hoạt động đầu tư của 2 công ty này đang phá hủy môi trường cũng như xâm hại đến người dân địa phương.
Nhiều cây gỗ ở Lào đã ngã xuống, nhường đất cho cao su.
Vài ngày sau khi báo cáo được tung ra, giá cổ phiếu của HAGL và Công ty Cao su Đồng Phú, một công ty thành viên của VRG, đã giảm xuống. Điều này cho thấy nhà đầu tư lo ngại trước triển vọng của 2 công ty này.
Từ sau câu chuyện của HAGL và VRG, Global Witness đã có bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đầu tư có trách nhiệm. Trong bối cảnh ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, việc đầu tư có trách nhiệm, có cân nhắc đến tác động môi trường và xã hội càng trở nên quan trọng. Vì nếu không, cái họ mất không chỉ là tiền bạc, danh tiếng mà còn là cơ hội tiếp cận các thị trường vốn quốc tế.
Hiện nay, chính phủ ở nhiều nước đang phát triển đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực đất đai mà không đánh giá đầy đủ các rủi ro về môi trường và xã hội. Trong khi việc này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ổn định không chỉ của quốc gia đó mà còn của cả thế giới.
Đầu tư vào đất đai trên toàn thế giới đã tăng mạnh kể từ năm 2000 và hiện ước tính tổng cộng lên tới 67,5 triệu ha. Những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các hoạt động đầu tư này thường là những nước nghèo dưới mức trung bình. Luật pháp tại các nước này lại chưa rõ ràng về quyền sở hữu đất và 24% trong tổng số các giao dịch về đất đai là rơi vào những vùng có rừng.
Đất lại là một lĩnh vực thiếu sự giám sát và quản lý chặt chẽ của chính phủ. Mặc dù việc đầu tư vào nông nghiệp tại châu Á và châu Phi thường được khuyến khích (vì có thể giúp một quốc gia xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ phát triển kinh tế) nhưng thực tế các mô hình hiện tại chưa khai thác tối đa những cơ hội mang lại. Và việc thành lập, điều hành các đồn điền lớn thường gặp khó khăn do không lường được tính chất phức tạp của nó.
Chuyển nhượng đất đai ở Campuchia và Lào là những ví dụ điển hình cho thấy các khoản đầu tư đang ngày càng gây ra căng thẳng và bất ổn xã hội, thường là do thiếu tính minh bạch và chưa rõ ràng về quyền sở hữu, sử dụng đất đai.
Ngoài tác động tiêu cực về xã hội và môi trường, các hoạt động đầu tư như vậy mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp. Bởi lẽ, các hợp đồng chuyển nhượng đất đã ký hoàn toàn có thể trở thành vô hiệu lực.
Trong năm 2012, đã có 4 hợp đồng chuyển nhượng đất tại rừng Prey Lang của Campuchia đã bị chính phủ nước này hủy bỏ do vấp phải sự phản đối của người dân.
Global Witness cũng chứng kiến một trường hợp khác đang diễn ra tại nơi này. Theo đó, một công ty nước ngoài đã đề nghị bồi thường 1,5 triệu USD cho 250 hộ dân nằm trong 300 ha, tương đương 5.000 USD/ha. Một ví dụ nữa là ở Tanzania. Cụ thể, một công ty Anh bị yêu cầu bồi thường cho cư dân địa phương gần 350.000 USD vì lấy đất làng.
Trong khi đó, vào tháng 12/2012, một báo cáo ước tính chi phí điều hành trung bình trên toàn cầu của một khoản đầu tư 3 năm với trị giá 10 triệu USD có thể gấp tới 29 lần so với mức bình thường nếu dự án đó buộc phải dừng do người dân địa phương phản đối.
Do đó, tại những quốc gia có cơ chế điều hành và khung pháp lý chưa hoàn thiện như Lào, Campuchia và Myanmar, các công ty cần phải chuẩn bị kỹ để tránh những rủi ro như trên.
Ngoài việc tuân thủ luật pháp nước sở tại, doanh nghiệp nên làm cho nhà đầu tư yên tâm bằng cách thực hiện các quy trình kiểm tra, thẩm định, đánh giá đối với việc quản lý đất đai.
Điều này không chỉ cho thấy dự án của họ có thể mang lại lợi ích cho địa phương và quốc gia mà họ đầu tư. Điều quan trọng hơn là cho thấy doanh nghiệp tuân thủ nguyên tắc không gây hại.
Đối với những công ty đầu tư vào lĩnh vực có rủi ro cao như đất đai, có thể tham khảo những bộ nguyên tắc quốc tế để giúp họ có trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Chẳng hạn, bộ nguyên tắc hướng dẫn về quyền của con người và doanh nghiệp của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Hay bộ hướng dẫn tự nguyện về quản lý có trách nhiệm đối với việc sở hữu đất, ngư trường và rừng được Ủy ban An ninh Lương thực thế giới áp dụng.
Tựu trung, các bộ nguyên tắc này nhấn mạnh 3 điều quan trọng khi doanh nghiệp đầu tư ra nuớc ngoài.
Thứ nhất, phải đảm bảo việc ra các quyết định liên quan đến đất đai phải cụ thể, rõ ràng, minh bạch và có trách nhiệm. Nhiều bằng chứng cho thấy các công ty hưởng lợi rất lớn từ việc nâng cao tính minh bạch và có tham khảo ý kiến của công chúng trong suốt giai đoạn đầu tư.
Hoạt động minh bạch cũng giúp doanh nghiệp tránh được những chỉ trích từ dư luận mà có thể ảnh hưởng đến hình ảnh và danh tiếng của doanh nghiệp, khiến cho những cuộc thương thảo đầu tư trong tương lai và thu hút tài trợ cho dự án gặp nhiều khó khăn hơn.
Thứ hai, cần lường trước những tác động về môi trường và xã hội bằng việc thực hiện bản đánh giá tác động dựa theo những tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ ba, phải có được sự đồng tình ủng hộ của cư dân địa phương trong việc phát triển dự án trên đất của họ. Một sai lầm mà các nhà phát triển dự án thường mắc phải là cứ cho rằng họ biết điều gì mà người dân địa phương cần. Người dân trong khu vực phát triển dự án cần được cung cấp đầy đủ thông tin để có thể đưa ra các quyết định chính xác liên quan đến quyền lợi của họ.
Trung Quốc là một ví dụ. Doanh nghiệp Trung Quốc ngày càng bành trướng đầu tư ra nước ngoài. Vì thế, để tránh những rủi ro như trên, Chính phủ Trung Quốc gần đây đã ban hành bộ nguyên tắc hướng dẫn về hợp tác và bảo vệ môi trường. Từ trước đến nay, đây là bộ tiêu chuẩn đầu tiên được tung ra để các doanh nghiệp Trung Quốc dựa vào đó mà hành xử khi làm ăn ở nước ngoài.
Quay trở lại với câu chuyện HAGL và VRG. Sau khi báo cáo “Các ông trùm cao su” được công bố, VRG và HAGL đều đồng ý đánh giá lại tình hình môi trường xã hội liên quan đến các đồn điền của họ tại Campuchia và Lào, sau đó báo cáo lại với Global Witness và cùng tiếp tục làm việc với nhau. HAGL và VRG đang thực hiện các giải pháp để tránh những tác động tiêu cực về môi trường và xã hội.